Nghiên cứu kém chất lượng – nguy cơ cho cộng đồng!
November 20, 2012 by Admin
Chúng ta nghĩ thế nào về các bác sĩ điều trị sai do có chủ ý hay do sự ngu dốt hay tiến hành những điều trị đúng một cách sai lầm (cho liều thuốc sai)? Phần lớn mọi người đều đồng ý rằng những hành vi như vậy là thiếu tính chuyên nghiệp và không đạo đức và chắc chắn không chấp nhận được.
Vậy chúng ta nghĩ thế nào về các nhà nghiên cứu sử dụng kĩ thuật sai (do chủ ý hoặc ngu dốt), lí giải sai kết quả, báo cáo kết quả một hoặc trích dẫn nguyên văn hay đưa ra những kết luận không thỏa đáng? Chúng ta nên kinh hoàng về điều này. Nhưng có nhiều nghiên cứu trong y văn và cả trong tạp chí tổng quát lẫn chuyên ngành đã cho thấy tất cả các hiện tượng trên là phổ biến. Điều này thật khủng khiếp.
Khi tôi nói với các bạn ngoài ngành y rằng có nhiều bài báo xuất bản trong tạp chí y khoa là nhầm lẫn do sự yếu kém về phương pháp, họ đều kinh ngạc ngay lập tức.Một số tiền khổng lồ đã chi ra hàng năm cho những nghiên cứu bị sai lầm về phương pháp do sử dụng thiết kế không phù hợp, mẫu không đại diện, mẫu nhỏ hay sử dụng phương pháp phân tích sai và lí giải sai lầm. Sai sót thuộc thuộc rất nhiều loại đến nỗi một cuốn sách rất có giá trị về chủ đề này cũng không thể liệt kê toàn diện (Andersen B. Methodological errors in medical reseach. An incomplete catalogue. Oxford: Blackwell, 1990.).Dù sao đi nữa những người mắc sai lầm lại là những người ít khi đọc về nó.
Tại sao các sai lầm lại phổ biến như vậy? Nói đơn giản, nhiều nghiên cứu kém chất lượng ra đời vì các nhà nghiên cứu bị thúc đẩy do lí do nghề nghiệp phải tiến hành nghiên cứu mà họ ít được trang bị để thực hiện và không có ai ngăn chặn họ. Bất kể một bác sĩ muốn theo đuổi nghề nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu, người đó thường được mong đợi phải tiến hành một số nghiên cứu với mục đích là xuất bản một vài bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Một danh sách dài các công trình là một chỉ số đáng ngờ của khả năng thực hiện nghiên cứu, dùng chỉ tiêu này để đánh giá năng lực của các bác sĩ lại càng đáng ngờ hơn.
Một lập luận phổ biến để giải thích nguyên nhân các bác sĩ phải làm một số nghiên cứu là nó sẽ cung cấp một số kinh nghiệm và có thể giúp các bác sĩ lí giải được nghiên cứu đã đăng báo của bác sĩ khác. Tuy nhiên điều nên hiểu ở đây là tiến hành một nghiên cứu hợp lí, dù với qui mô nhỏ là hữu dụng hơn là tiến hành một nghiên cứu lớn nhưng được thiết kế sai lầm và bỏ qua những nguyên lí khoa học.
Ở nhiều quốc gia bất cứ một nghiên cứu nào có liên quan đến bệnh nhân phải được kiểm duyệt và chấp nhận bởi một Ủy ban Đạo đức nghiên cứu. Tuy nhiên ngay cả nước Anh, rất ít Ủy ban đạo đức có thành viên là một nhà thống kê ngay cả khi đã có khuyến cáo của Y sĩ đoàn Hoàng Gia. (Royal College of Physicians . Guideline on the practice of ethics committees in medical research. London:CRP,1984).
Tác động của áp lực lên việc xuất bản có thể được thấy rõ ràng nhất trong sự gia tăng của gian trá khoa học, phần nhiều là tương đối nhỏ và có thể tránh được sự phát hiện. Sự cám dỗ của hành xử không chân thật có lẽ đã gia tăng nhiều hơn vào lúc này, khi mà lí do chính của một đề tài nghiên cứu được tiến hành dường như chỉ là để kéo dài lí lịch khoa học của một nhà nghiên cứu. Sự nguy hiểm cho phúc lợi và sức khỏe cộng đồng do gian trá thống kê nhiều hơn bất kì các dạng gian trá nào khác trong xã hội.
Thường thì việc đánh giá chất lượng các báo cáo khoa học thường rơi vào tay các nhà thống kê. Các tạp chí y học đầu tư đáng kể công sức bằng cách tìm kiếm các bài báo được đánh giá từ các nhà thống kê, tuy nhiên thực tế thì ít báo cáo bị loại chỉ vì lí do thống kê đơn thuần và điều không may là các tạp chí sử dụng rất ít hay hầu như không có trọng tài về thống kê và… các báo cáo kém dễ dàng được xuất bản.
Nhiều người cho rằng tất cả những gì cần để làm thống kê chỉ là một cái máy tính và một phần mềm phù hợp. Quan điểm này là sai lầm ngay cả cho việc phân tích khi đã bỏ qua nhiều điểm căn bản của thiết kế nghiên cứu , cơ sở mà việc nghiên cứu tạo nên. Bác sĩ không phải là nhà thống kê nhưng ít nhất họ nên hiểu nguyên lí và có phương pháp nghiên cứu hợp lí. Và nếu có thể tự mình phân tích số liệu thì càng tốt. Điều kì lạ là có một tư tưởng được chấp nhận rộng rãi rằng những người làm nghiên cứu có thể không biết gì về thống kê. Nhiều người không mắc cỡ, thậm chí còn tự hào khi thừa nhận rằng họ không biết tí gì về thống kê (mà vẫn làm được nghiên cứu !!!).
Chất lượng kém của các nghiên cứu không phải là một vấn đề xa lạ mà đã trở nên phổ biến nhưng điều khó chịu là những người lãnh đạo trong ngành y dường như chỉ quan tâm một chút về vấn đề này mà không có một nỗ lực nào để tìm ra giải pháp. Ngành công nghiệp chế tạo đã nhận thức được, dù rằng chỉ dần dần, rằng việc kiểm soát chất lượng nên được tiến hành ngay từ đầu thay vì chờ đến khi thấy phế phẩm mới loại bỏ, và điều này nên được áp dụng trong y khoa và đặc biệt là y tế công cộng. vấn đề ở đây không chỉ là thống kê mà nó còn là sự kém cỏi trong nhận thức các nguyên lí căn bản của khoa học, đi đôi cùng với xu hướng “xuất bản hay tàn lụi”.
Khi một hệ thống khuyến khích các nghiên cứu kém thì chính hệ thống đó phải thay đổi.Chúng ta cần nghiên cứu ít đi, nghiên cứu tốt hơn và nghiên cứu vì mục đích đúng. Phải bắt đầu từ việc bỏ đi sử dụng số công trình nghiên cứu xuất bản để đo lường năng lực.
D G Altman – Altman DG.Statistics in medical journals. Stat Med 1983;1:59-71.
Nguồn: PGS.TS. Đỗ Văn Dũng