Đo lường hiện mắc và mới mắc

by Kinh Nguyen

Những số đo về phân bố của bệnh này có thể là những chỉ tố được sử dụng phổ biến nhất để mô tả bệnh trạng trong dân số. Số mới mắc đo lường sự xảy ra các ca bệnh mới, và hiện mắc đo lường các ca bệnh hiện tại.

Số mới mắc trong các nghiên cứu dọc

Số mới mắc là số đo tần suất sự kiện bệnh mới xảy ra và tỷ suất mà người không mắc bệnh phát triển bệnh trong một thời khoảng quan sát nhất định. Thời khoảng một năm là thường được sử dụng. Những khía cạnh quan trọng của các số đo này là

  • cần định nghĩa dân số quan tâm; thường được gọi là đoàn hệ khởi đầu;

  • tất cả mọi người trong đoàn hệ khởi đầu đều không mắc bệnh;

  • một thời khoảng quan sát cần được định rõ;

  • tất cả mọi người cần được theo dõi trong một thời khoảng nhất định;

  • nếu không hoàn tất theo dõi (một số theo dõi ngắn hơn thời khoảng quy dịnh), ước lượng tỷ suất mới mắc phải được điều chỉnh thích hợp (cụ thể là dùng mật độ mới mắc thay vì mật độ cộng dồn).

Hai số đo mới mắc phổ biến được sử dụng trong các nghiên cứu mô tả là số mới mắc tích lũy và mật độ mới mắc. Khi tất cả người trong dân số quan tâm đã được theo dõi một khoảng thời gian nhất định, số ca mới chia cho cỡ dân số cho ra số mới mắc tích lũy. Đây là một tỷ lệ và là số đo nguy cơ mắc bệnh trong dân số đó trong một khoảng thời gian xác định.

Nếu thời khoảng theo dõi khác nhau giữa các cá nhân, mẫu số trong phép tính trên được điều chỉnh theo người-thời gian (v.d. nếu 100 người được theo dõi trong 6 tháng và 100 người được theo dõi trong một năm, thì tổng số quan sát là 1800 người-tháng hay 150 người-năm). Chỉ số tính được được gọi là mật độ mới mắc, và cho một ước lượng cho “xác suất tức thời” mắc bệnh trong dân số đó.

Lập bảng thống kê tỷ suất mới mắc theo các nhóm người, nơi chốn và thời gian sẽ hữu ích trong phát hiện các nguyên nhân tiềm tàng (yếu tố nguy cơ) của sự biến thiên số mới mắc, và có thể dùng trong các nghiên cứu tiếp sau để xác nhận hoặc chứng minh kết quả.

Sử dụng tỷ suất mới mắc trong giám sát

Thông thường, tỷ suất mới mắc được các cơ quan y tế sử dụng cho mục đích giám sát. Tỷ suất mới mắc hàng năm được tính và lập biểu đồ, và sự biến thiên của tỷ suất mới mắc hàng năm được dùng để phát hiện phạm vi vấn đề tiềm tàng qua phân tích xu hướng. Ví dụ nếu tỷ suất mới mắc lao hằng năm vốn đã ổn định đột ngột gia tăng trong một năm nhất định, cần thực hiện các nghiên cứu để phát hiện nguyên nhân và các xây dựng hoạt động dự phòng.

Với những sự kiện có tính tái diễn nhiều lần như cảm lạnh, dị ứng hoặc hen suyễn, số “lần mắc” có thể được sử dụng làm tử số thay vì số “ca” mắc. Đôi khi thuật ngữ “tỷ suất tấn công” được sử dụng cho các tỷ suất như vậy. (xem J. Last: Dictionary of Epidemiology.) Những thay đổi của số mới mắc có thể xảy ra do một số yếu tố sau:

  • một yếu tố nguy cơ mới xuất hiện (v.d. thuốc uống tránh thai và sự gia tăng tắc nghẽn mạch máu; các chất phụ gia và ung thư);

  • thay đổi thói quen (v.d. gia tăng hút thuốc lá và ung thư phổi; nước được cho flo-rua và giảm sâu răng);

  • thay đổi độc lực của vi sinh vật gây bệnh (v.d. các vi khuẩn kháng thuốc và tử vong do nhiễm khuẩn; kháng thuốc và gia tăng sốt rét);

  • thay đổi hiệu lực điều trị hoặc các chương trình can thiệp (v.d. vắc xin ngừa sởi giảm số mới mắc sởi);

  • di cư có chọn lọc của người cảm nhiễm tới vùng có dịch lưu hành.

Comments

comments powered by Disqus