Thiết kế thử nghiệm
by Kinh Nguyen
Sự lựa chọn một thiết kế thử nghiệm tốt phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Hình [fig:thietkethunghiem] trình bày một lưu đồ của một thiết kế thử nghiệm thông thường.
Dân số tham chiếu (còn gọi là dân số đích) là dân số mà sự khái quát của kết quả thử nghiệm được áp dụng. Trong thử nghiệm lâm sàng về AZT trên bệnh nhân AIDS, tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán có AIDS sẽ được bao gồm trong nhóm này. Trong các thử nghiệm cộng đồng về ảnh hưởng của giáo dục bà mẹ về dinh dưỡng đối với cải thiện sức khỏe trẻ nhỏ, tất cả các gia đình có trẻ nhỏ sẽ hình thành dân số tham chiếu. Bước đầu tiên trong bất cứ thiết kế thử nghiệm nào là việc xác định một dân số tham chiếu thích hợp.
Một khi xác định được dân số tham chiếu, cần xác định liệu có thể nghiên cứu toàn bộ dân số này hay chỉ có thể nghiên cứu được một mẫu. Nếu là một mẫu thì lựa chọn tốt nhất cho dân số nghiên cứu này sẽ là chọn một mẫu ngẫu nhiên đơn (đặc biệt là khi nghiên cứu đủ lớn), để không có sai lệch nào trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên trong thực tế thì nhóm nghiên cứu được chọn theo thuận tiện. Ví dụ trong các thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu thường giới hạn ở một vài địa điểm và bệnh nhân báo cáo cho các nơi này một cách tự nguyện hoặc thông qua một hệ thống giới thiệu. Việc thành công của một thử nghiệm và liệu kết quả của thử nghiệm có thể suy rộng ra cho dân số đích hay không rõ ràng là sẽ phụ thuộc vào việc mẫu này đại diện đến mức nào. Ví dụ nếu một thử nghiệm lâm sàng trên các bệnh nhân tim mạch bị giới hạn trong các trung tâm y tế chuyên về tim mạch, kết quả sẽ không thể khái quát ra toàn bộ các bệnh nhân tim mạch. Sai lệch chọn lựa thường là vấn đề rất nghiêm trọng khi chọn lựa dân số nghiên cứu.
Trong hầu hết các thử nghiệm, nghiên cứu có thể bị giới hạn trong các nhóm nhỏ của dân số nghiên cứu vì nhiều lí do. Những lí do này cần và phải được liệt kê trước khi bắt đầu thử nghiệm thành các tiêu chí chọn vào/loại ra. Tiêu chí chọn vào phải xác định nhóm đích một cách nhất quán và tin cậy. Ví dụ nếu thử nghiệm được thực hiện trên bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, cần phải định nghĩa nhồi máu cơ tim theo một cách chấp nhận được với người tiếp nhận thông tin từ nghiên cứu (thường là các bác sĩ khác hoặc các nhân viên y tế, nhà làm chính sách, v.v.) và phải được xác định như vậy trong những hoàn cảnh khác nhau. Định nghĩa phải chính xác và có thể tái lập được. Mặt khác, các tiêu chí loại ra liệt kê các đặc tính của đối tượng nghiên cứu làm họ không đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Những tiêu chí này được chọn để giảm thiểu các nguy hiểm tiềm ẩn (các bệnh nhân lớn tuổi và phụ nữ có thai thường sẽ bị loại ra khỏi các thử nghiệm lâm sàng), và để chọn các đối tượng tương đối đồng nhất để giảm bớt cỡ mẫu cần thiết. Rõ ràng điều này sẽ làm sai lệch nhóm được thử nghiệm với nhóm dân số đích hay dân số nghiên cứu. Phạm vi của việc loại ra do các tiêu chí này có thể làm cho nghiên cứu không giá trị.
Một khi xác định được nhóm đối tượng tiềm năng, điều nhất thiết là nhận được “giấy đồng ý tham gia” từ các người tham gia trước khi họ được cho thử nghiệm. Sẽ là không đạo đức khi tiến hành một thử nghiệm trên con người mà không có sự đồng ý của họ (đồng ý của cá nhân hoặc của nghiên cứu đại diện có thẩm quyền nếu không có khả năng hay không thể đồng thuận một cách hợp pháp). Có rất nhiều quy ước quốc tế (ev.d. tuyên bố Helsinki) về thử nghiệm trên người cần phải được tham khảo. Trong một số trường hợp, để có được sự đồng thuận thích hợp, cần có được cả các thông tin khác tùy theo từng quốc gia và giấy đồng ý. Đối tượng không sẵn sàng hoặc không thể đồng ý cần được loại khỏi dân số các đối tượng tiềm năng.
Các đối tượng còn lại sau việc loại ra kể trên hình thành nhóm đối tượng nghiên cứu. Nhóm này là nhóm sẽ được thử nghiệm. Các đối tượng trong nhóm này sau đó sẽ được phân bổ ngẫu nhiên vào nhiều nhóm yếu tố can thiệp và nhóm chứng. Việc phân nhóm có thể thực hiện bằng cách tiếp cận chọn mẫu ngẫu nhiên đơn, hoặc có thể phân tầng theo nhiều yếu tố gây nhiễu.
Một khi các đối tượng được phân vào các nhóm thử nghiệm và chứng, họ được theo dõi trong một thời khoảng nhất định trong những điều kiện nghiêm ngặt và kết cuộc của thử nghiệm được ghi nhận một cách cẩn thận. Kết cuộc có thể là một sự kiện nhị giá như khỏi bệnh, hết đau, v.v., hoặc có thể đo lường dưới dạng biến số định lượng như sự giảm huyết áp hay khoảng cách tái phát. Các đo lường kết cuộc sau đó sẽ được so sánh giữa các nhóm với các phương pháp thống kê thích hợp.
Cần lưu ý rằng mặc dù các đối tượng đã được phân bổ ngẫu nhiên vào nhóm thử nghiệm và nhóm chứng, vẫn không đảm bảo rằng việc phân nhóm sẽ không có sai lệch. Vẫn có thể có những sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về một hoặc nhiều yếu tố gây nhiễu. Do vậy phân bổ ngẫu nhiên thành công hay không cần được xác nhận bằng cách so sánh phân bố của tất cả các biến số gây nhiễu vào lúc bắt đầu thử nghiệm (trước khi phân bổ điều trị). Nếu có bất cứ khác biệt đáng kể nào, cần thực hiện các hiệu chỉnh thích hợp khi thực hiện so sánh thống kê các đo lường kết cuộc.